f Phong Thủy - tran yem Phong Thủy: tran yem - All Post
- Chào mừng Quý khách đã ghé thăm Trang Quảng Cáo Phở Mignon của chúng tôi !. - Chúng tôi có 2 chi nhánh
- Phở Mignon đã tạo dựng cho mình một thương hiệu có uy tín tại Cộng Đồng Người Việt Ở Seattle. - Chúng tôi có 2 chi nhánh
- CN1: Totem Lake West Shopping Center, 12557 116th Ave NE, Kirkland, WA 98034, Hoa Kỳ - CN2:4004 NE 4th St Renton, WA 98056 b/t N Queen Ave & N Union Ave
Showing posts with label tran yem. Show all posts
Showing posts with label tran yem. Show all posts

THỰC HƯ KHẢ NĂNG TRẤN YỂM VÀ CÂU CHUYỆN NGƯỜI DÂN CHÔN NGHÊ GIỮ ĐẤT

Những con Nghê cổ tìm thấy dưới móng nhà của nhiều người dân được nhiều người cho là một vật trấn yểm nhằm bảo vệ gia chủ thoát khỏi hung kiếp. Lại có ý liến các cụ xưa kia dùng nó vừa để xua đuổi tà khí cũng vừa để cầu vượng khí đến nhà. Tuy nhiên thực hư câu chuyện này có đúng như lời đồn đại?

Nghê ít được sử dụng để yểm đất

Nhằm làm rõ thực hư khả năng trấn yểm của con Nghê, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với chuyên gia phong thủy Phạm Cương (Công ty cổ phần Nhà Xuân) để làm rõ vấn đề này. Chuyên gia Cương cho biết: “Trấn và yểm theo tôi cần phân biệt nhằm tránh đồng nhất giữa hai khái niệm này. Theo quan niệm phong thủy thì “trấn” dùng để chỉ việc đặt các vật khí phong thủy hiện hữu trên mặt đất và nhìn thấy được, còn “yểm”  là các vật đó được đem chôn dưới đất hoặc gói bọc … nhằm đạt được mục đích làm phong thủy”.


Lý giải những hoài nghi quanh việc người dân thường xuyên đào được Nghê dưới móng và cho rằng đó là phương pháp yểm đất của người xưa, chuyên gia Cương không đồng tình với cách nhìn nhận như vậy. Theo chuyên gia này thì Nghê chủ yếu được sử dụng để trấn giữ cửa đình, chùa hoặc cửa ngôi nhà. Ngoài ra nó còn được dùng như họa tiết trang trí trên mái các ngôi đình, chùa đó. Nghê ít sử dụng để yểm đất (tức chôn xuống).
“Kết quả của các khai quật khảo cổ cho biết Nghê xuất hiện từ rất sớm ngay từ thời Lý thế kỷ X, sau đó phát triển và trở nên phổ biến khi được tạo tác bằng gốm Chu Đậu thế kỷ XVI- XII. Cuối cùng nó phát triển thịnh đạt cho đến cuối đời Tây Sơn. Trải qua hàng ngàn năm với các tầng văn hóa nối tiếp nhau nên rất nhiều Nghê bị chôn vùi dưới đất. Vì vậy ngày nay khi tiến hành xây dựng chúng ta có thể gặp nghê bên dưới lòng đất. Thông thường đó là những con nghê cách đây vài chục, vài trăm năm hoặc hơn nữa, được bài trí trước nhà cửa để bảo hộ cho gia chủ bình an và theo năm tháng bị vùi lấp xuống dưới đất” – chuyên gia Phạm Cương cho biết thêm.
Tuy nhiên chuyên gia này cũng đánh giá cao về tác dụng của Nghê trong việc trấn giữ cửa nhà nói riêng và vai trò trấn giữ tại các công trình kiến trúc mang tính tâm linh nói chung. Anh chia sẻ: “Trong Phong thủy, Nghê thường được dùng trấn giữ cửa nhà, hóa giải hung khí chiếu tới khi đối diện với cửa nhà khác hay bị ngã ba ngã tư, đường vòng, hoặc góc nhọn chiếu vào cửa nhà. Nghê cũng dùng để hóa giải hung khí của các sao Sát khí như Ngũ Hoàng, Nhị Hắc…chiếu mỗi năm”.
Tất nhiên việc dùng Nghê để trấn các ngôi nhà, các công trình kiến trúc tâm linh cần phải được xem xét cẩn thận. Nói theo cách của chuyên gia Phạm Cương thì việc sử dụng nghê để trấn yểm chủ yếu dựa vào hướng nhà, phương vị nhà cùng với thuyết âm dương, ngũ hành và bài trí trên mặt đất chứ ít khi chôn xuống dưới. Nghê hiện nay được làm từ nhiều chất liệu khác nhau như đồng, gốm sứ, gỗ…Tùy vào từng hướng nhà mà gia chủ có thể sử dụng cho phù hợp. Chẳng hạn khi chúng ta cần dùng hành Mộc có thể sử dụng Nghê gỗ, hành Thổ dùng Nghê bằng gốm sứ, hành Kim dùng nghê đồng … Nghĩa là mỗi chất liệu đều có tác dụng cụ thể khác nhau đối với mảnh đất và mạng số của gia chủ đó.
Riêng đối với những trường hợp đào được Nghê dưới móng nhà, người dân cũng không cần phải hoang mang hay có những nghi vấn mang tính chất hoang đường. Điều này vốn rất bình thường và không nên đẩy vấn đề đi quá xa. Chuyên gia Cương cảnh báo: “Khi xây nhà nếu người dân phát hiện Nghê thì cũng không nên quá lo lắng vì đó thực chất là những con Nghê vô tình bị vùi lấp từ các thời kỳ trước chứ không phải dùng để yểm long mạch của khu đất đó. Những con nghê này thường mang ý nghĩa tích cực nhiều hơn là tiêu cực, cho nên khi gặp tình huống này không nên quá hoang mang. Trong trường hợp còn nghi ngờ người dân nên gặp các chuyên gia uy tín, không nhất thiết phải bày vẽ cúng bái gây tốn kém tiền bạc cho chính mình mà lại không giải quyết được vấn đề gì”.
Như vậy vai trò trấn giữ của con Nghê trong các công trình xây dựng đã được khẳng định. Tuy nhiên vai trò, vị trí, chức năng của nó so với các linh vật khác như thế nào? Khả năng trấn giữ của linh vật này có gì kđặc biệt so với những linh vật trong tứ linh? Câu hỏi này cũng không dễ để trả lời.
Khả năng trấn yểm không mạnh
Đó là nhận định của nhà nghiên cứu Trần Hậu Yên Thế (Đại học Mỹ thuật Việt Nam) dựa trên những quan sát, đánh giá những trạng thái, cảm xúc của hình tượng này trong các công trình kiến trúc tại đền, chùa … và thậm chí là trong các công trình xây dựng dân dụng.
Trao đổi với PV báo Đời sống và Pháp Luật, nhà nghiên cứu này cho biết: “con Nghê trong suy nghĩ của người Việt không có tác dụng trấn yểm mạnh như các linh vật khác của Trung Quốc. Hai trạng thái tình cảm lớn nhất của hình tượng này là trầm mặc và hoan hỉ. Rất ít hình tượng Nghê có biểu hiện dữ dằn trong tạo tác như Sư tử hay Kì lân. Chính bởi vậy con Nghê không có chức năng đe dọa, hung tợn và tất nhiên, nếu thế thì khả năng trấn giữ của nó không mạnh bằng các linh vật khác”.
Tất nhiên dưới triều nhà Nguyễn, đặc biệt dưới triều vua Minh Mạng thì hình tượng Nghê biến đổi rất nhiều và gần như mang dáng dấp của con Kỳ lân và Sư tử. Sự sùng bái văn minh Trung Hoa của vị vua này khiến cho một thời con Nghê Việt Nam có dáng vẻ hung ác, dữ tợn. Tuy nhiên khi mà triều đại nhà Nguyễn kết thúc, hình tượng Nghê lại quay về với dáng vẻ ban đầu của nó. Hiện nay Nghê được tạo tác dưới hình hài thân thiện hơn nhiều với đầu gần giống Lân nhưng mình và tư thế ngồi lại giống có đá.
Cũng theo nhà nghiên cứu Trần Hậu Yên Thế thì những biểu hiện cảm xúc của con Nghê thể hiện tập trung những giá trị văn hóa và quá trình giao lưu, hội nhập giữa văn hóa bản địa và văn hóa du nhập. Trạng thái hoan hỉ của con Nghê  như là một trạng thái đón chào người thân (đặc điểm này giống với bản tính con chó giữ nhà của người Việt). Trạng thái trầm mặc lại là biểu hiện của sự giao lưu với Phật Giáo. Tuy trầm mặc, uy nghiêm nhưng con Nghê không tạo ra cảm giác trấn áp người nhìn mà vẫn rất thân thiện, gần gũi. Nhà nghiên cứu này còn cho biết một thông tin thú vị: “Sở dĩ nói quan niệm trấn yểm của Nghê  không mạnh còn dựa vào hình dáng, kích thước của nó. Ngoại trừ con Nghê ở Huế là có hình dáng đồ sộ ra thì hầu hết Nghê Việt Nam được tạo tác với khuôn vóc nhỏ bé, vừa tầm. Nghê cũng được đặt trên bệ thấp và nhìn tổng thế không con nào quá một 1,4m. Nghĩa là vừa tầm mắt người nhìn nên không tạo ra cảm giác choáng ngợp như những con sử tử khổng lồ đặt tại các lăng mộ của người Trung Quốc”.
Chuyên gia phong thủy Phạm Cương cũng đồng tình về ý kiến này khi cho rằng: “con Nghê vốn có nhiều kiểu dáng khác nhau, tuy nhiên nó là một linh vật thuần Việt với tạo hình không quá dữ dằn, kích thước nhỏ (thường không cao quá 1,4m) nên rất phù hợp để trấn trước cửa nhà bình dân. Các linh vật khác, đặc biệt là sư tử với tạo hình dữ dằn, cao lớn thường được sử dụng để trấn ở cung điện, lăng mộ ngày xưa và hiện nay chúng ta thường gặp ở cửa văn phòng cơ quan công xưởng lớn”.
Con nghê ở đền Gióng, Sóc Sơn, Hà Nội
Hiện nay có nhiều thắc mắc về việc sử dụng Nghê để trấn giữ tại các cổng đền, chùa hay trên mái của các công trình tôn giáo. Câu hỏi là sao người ta lại chọn Nghê chứ không phải là các linh vật khác? Chuyên gia phong thủy Phạm Cương lí giải: “Tùy theo tính chất và quy mô của công trình mà chúng ta sử dụng các linh vật cho phù hợp chứ không quy định cụ thể khi nào dùng Nghê, khi nào dùng các linh vật khác”
Theo Đời sống và Pháp Luật.

Trấn Yểm Có Thật Hay Không

Trấn yểm, theo các nhà nghiên cứu không còn là phạm trù tâm linh mà trở thành môn khoa học đã, đang được nghiên cứu, ứng dụng vào cuộc sống.

Những câu chuyện về cột đồng Mã Viện, trấn yểm của Cao Biền, trận đồ bát quái dưới lòng sông Tô Lịch, Nguyễn Văn Thiệu trấn yểm long mạch ở Sài Gòn, hay hòn đá ở Đền Hùng... là những chuyện ly kỳ mà khoa học vẫn còn đang lý giải.
Trấn yểm, theo các nhà nghiên cứu không còn là phạm trù tâm linh mà trở thành một môn khoa học đã và đang được nghiên cứu, ứng dụng vào cuộc sống. Tuy nhiên, đến nay những lý giải về trấn yểm mới chỉ ở mức mơ hồ, tranh tối tranh sáng khiến nhiều người lầm tưởng trấn yểm là một chuyện bịa.






  • Trấn yểm là gì?
Theo tìm hiểu của chúng tôi, cho đến thời điểm hiện tại, ở nước ta chưa có bất cứ một công trình nghiên cứu khoa học nào thực sự công phu, tỉ mỉ về đề tài trấn yểm. Số nhiều chỉ là những câu chuyện trong cuộc trà dư tửu hậu, rồi qua mỗi người câu chuyện ấy lại được thêm chút ít cho thành huyền thoại.
Phàm là người phương Đông, đặc biệt là ở Việt Nam, không ai mà chưa một lần được nghe về chuyện trấn yểm. Thế nhưng, vấn đề càng trở nên bí ẩn, nửa hư nửa thực và thậm chí đã khiến không ít người phủ nhận sự tồn tại của trấn yểm và coi đó là chuyện bịa.
"Thực tế thì trấn yểm là điều có thật và tồn tại từ rất lâu rồi. Bởi vì nó là một môn khoa học chưa được giải thích thấu đáo nên còn nhiều vấn đề mơ hồ. Gạt bỏ qua những câu chuyện chưa được kiểm chứng, chúng ta đi giải thích thuật ngữ trấn yểm thì sẽ tìm được ý nghĩa trước mắt", nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương cho biết. Theo ông Tuấn Anh, "trấn" nghĩa đen là đè xuống; "yểm" là giấu đi đồng nghĩa với ếm, ém, nghĩa đen là làm cho một đối tượng bị ếm, ém, yểm không phát triển được. Đây là một thuật ngữ trong phong thủy mô tả một phương pháp làm cho cái xấu, hoặc tốt không phát huy được.




                                        TS Nguyễn Hoàng Điệp. 
Còn theo TS Nguyễn Hoàng Điệp, Giám đốc Trung tâm dịch thuật, dịch vụ Văn hóa & Khoa học - Công nghệ: "Trấn yểm là dùng các vật thể nào đó để phá hoại đối phương về long mạch, mồ mả, kinh tế, sức khoẻ. Nhưng cũng có những cách trấn yểm đem lại lợi lộc như trừ đi khí xấu để bảo vệ sức khoẻ". Học giả Trung Trí lại luận giải thế này: Trấn yểm là hai từ Hán - Việt. Trong Hán ngữ, "trấn" thuộc bộ Kim. Nếu là danh từ, nó vừa có nghĩa là dụng cụ dùng để đè, chặn, vừa có nghĩa là cái căn gốc làm cho một nước nào đó được yên định, tỷ như "phù bất vong cung kính, xã tắc chi trấn dã" (không quên cung kính, đó là cái căn gốc làm  cho xã tắc yên định). Nhưng nếu là động từ, "trấn" có nghĩa là áp chế, ngăn chặn, dìm ém, trùm đậy, thường thấy nơi từ "trấn thủ" hoặc "trấn tà".
"Yểm" thuộc về bộ Thủ. Là động từ, nó cũng có nghĩa tương tự  chữ "trấn". Như vậy ở đây, trấn yểm thường  được gọi chếch ra thành trù ếm, hay trù úm, chỉ có thể hiểu trong tư cách  một động từ, nên phải mang nghĩa của một động từ, đó là hành vi trùm ém, dìm nén, đì đè  xuất phát từ một vật hay người  này lên một vật, hay người kia, nhằm triệt tiêu năng lực hưng thịnh khơi dậy nơi đối tượng bị trấn yểm.


                                           Chuyên gia phong thủy Phạm Cương. 

  • Trấn yểm với khoa học hiện đại


Theo chuyên gia phong thủy Phạm Cương, các loại hình trấn yểm nói chung nên coi là kinh nghiệm trong xây dựng nhà của người phương Đông, loại bỏ những yếu tố mê tín, chúng ta cần nhìn nhận về giá trị của nó và nghiên cứu dưới góc độ khoa học. Thực tế cho thấy, việc sử dụng các vật khí trấn yểm mang lại hiệu quả thiết thực trong việc cải thiện môi trường khí, mang lại sự cát lành cho ngôi nhà.
Trong quá trình xây cất nhà cửa, mồ mả chúng ta có thể gặp những thế đất không tốt. Khi đó phải có những biện pháp để hóa giải. Một trong những cách hóa giải là dùng vật khí để trấn yểm. 
Tác dụng chung của trấn yếm là trừ tà hóa sát, biến hung thành cát. Tuy nhiên, "trấn" và "yểm" là hai khái niệm khác nhau. Trấn là đặt các vật khí phong thủy hiện hữu trên mặt đất và nhìn thấy được còn yểm là các vật đó được đem chôn dưới đất, được gói bọc kín.
Bùa chú cũng chính là một loại hình trấn yểm. Bùa là giấy có vẽ hình hoặc viết chữ lên trên. Bùa thường do những người có công năng vẽ ra để dùng vào một mục đích cụ thể như trấn trạch, cầu an trừ tà, cầu tài lộc, chữa bệnh... Dân gian thường quan niệm sức mạnh và độ bền hoạt động của bùa chú phụ thuộc vào quyền năng của người vẽ. 



                                             Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. 
Cũng theo chuyên gia Phạm Cương, trấn yểm có mối liên hệ chặt chẽ với khoa học hiện đại. Bởi thực tế, trấn yểm chính là sự tổng hòa của tri thức kiến trúc, phong thủy, khoa học, tâm linh hòng tìm và phát huy cái tốt, trừ khử cái xấu để cuộc sống con người, xã hội phát triển ổn định hơn.
Nếu nói về các hoạt động liên quan đến trấn yểm trong lịch sử Việt Nam phải kể đến các truyền thuyết về Cao Biền trấn yểm long mạch thành Đại La. Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền trấn yểm núi Tản Viên, với việc sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để trấn yểm. 

Gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà Nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng... chôn để trấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại gồm sắt, đồng, vàng, bạc trấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa trấn yểm tới 19 nơi dọc theo dòng sông này. 

Ở Sài Gòn trước năm 1975 có hai công trình hình bát giác được cho là biểu tượng phong thủy để trấn yểm long mạch, đó là hồ Con Rùa, với rất nhiều giai thoại mang màu sắc huyền bí, ly kỳ xung quanh mà cho đến bây giờ khoa học vẫn chưa lý giải được hết. 

"Trấn yểm không phải là điều mê tín mà nó đã tồn tại từ xa xưa rồi. Nó có mối liên hệ rất chặt chẽ với khoa học hiện đại mà chúng ta cần đi sâu nghiên cứu, bóc tách, giải thích từng vấn đề. Làm được như vậy, chúng ta mới xóa bỏ những mơ hồ tâm linh để hướng tới thực tiễn khoa học mà trấn yểm mang lại".
TS Nguyễn Hoàng Điệp (Giám đốc Trung tâm dịch thuật, dịch vụ Văn hóa và Khoa học - Công nghệ)

Chuyện kỳ bí về chó đá trong trấn yểm

Trong phong tục, tín ngưỡng dân gian việc thờ cúng tự nhiên đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân. Và trong các Tín ngưỡng dân gian ấy, phải kể đến Tín ngưỡng thờ động vật, mà cụ thể là tục thờ con chó đá. Trong tâm thức của người Việt, những con chó bình thường thì chỉ coi giữ được phần dương, còn muốn canh giữ phần âm thì phải “nuôi” chó đá.
Câu chuyện kỳ bí về chó đá trong trấn yểm

Những gia đình giàu có chôn chó đá để canh giữ cửa nhà và thể hiện sự quyền uy, phú quý của gia chủ,thuật phong thủy chôn chó đá để thay đổi dương cơ, âm phần, tránh được những hiểm họa do thế đất xấu gây ra. Còn dân gian chôn chó đá để xua đuổi tà ma, quỷ quái. Có thể thấy rằng, tín ngưỡng thờ chó đá đã có từ rất lâu và cho đến nay vẫn còn được gìn giữ trong văn hóa của người Việt. Rất khó để chứng minh sự màu nhiệm của tín ngưỡng này, nhưng chắc chắn rằng khi có niềm tin, con người sẽ thoải mái, an tâm và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn. Và đây cũng chính là giá trị đích thực của tín ngưỡng thờ chó đá trong tâm thức người Việt. 

Tuy nhiên, trong phong thủy, việc chôn và nuôi chó đá để trước cửa nhà phải tiến hành một cách cẩn thận. Vì khi đặt chó đá trước cửa nhà, sau này gia chủ muốn gỡ bỏ rất khó, vì đã xác định nuôi chó đá mà bỏ đi sẽ mang nhiều vận đen. Câu chuyện minh chứng cho trường hợp này là Cặp chó đá trước cổng trường Đại Học Hàng Hải. Được đặt ở cổng trường, một thời gian nhà trường cho đem gỡ cặp chó đá. Năm ấy, sinh viên một lớp thuộc khoa lái và 2 giảng viên bị đắm tàu và rất nhiều câu chuyện trùng hợp không lý giải được. Nhà trường lại phải tiến hành đặt lại cặp chó đá về nguyên vị.

Câu chuyện thần khuyển" bảo vệ dân làng

Thôn Thượng (xã Viên Nội, huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội), nằm sát con đường lớn trải nhựa, ngay lối vào làng đã thấy cặp chó đá án ngữ sừng sững hai bên, hướng nhìn thẳng ra đường. Nhìn cặp chó đá rất oai phong và hùng dũng, điều này càng khiến chúng tôi tin vào sự linh thiêng và câu chuyện về những tên trộm, toán cướp có ý định vào làng làm một mẻ nhìn thấy hai "ông khuyển" trong đêm tối mà giật mình kinh hãi từ bỏ ý định ra về.
Cụ Kim Văn Duyên, 81 tuổi, người trông nom và hương khói đình làng Thượng vẫn còn khá minh mẫn, hỏi những chuyện từ ngày xửa ngày xưa, cụ vẫn kể vanh vách. Cụ Duyên cho biết: "Tôi được các cụ kể lại bởi cặp chó đá trấn giữ đầu làng có từ rất lâu rồi, khoảng trên 300 năm. Chúng được các cụ chọn xem ngày tốt và tạc bằng đá xanh nguyên khối với những đường nét hoa văn rất cầu kỳ và công phu từ những phần nhỏ nhất như đuôi, tai, mắt,.. Cặp chó đá có chiều cao gần 1m, khối lượng mỗi con nặng khoảng 3 tạ do một người trong làng cung tiến mang tận từ Thanh Hóa ra.

Theo thời gian và mưa nắng bào mòn, cặp chó đá đã phần nào bị hư hại và những nét văn hoa chỉ còn lại mờ mờ. Từ lâu, dân làng tôi đã coi đây như một linh vật có giá trị văn hóa độc đáo của làng, như một phần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt. Có người am hiểu về văn hóa cho rằng, những đường nét khắc trên cặp chó đá này thuộc kiến trúc, điêu khắc từ thời Lê".

Ngày nay, cụ Duyên và nhiều cao niên trong làng vẫn nhớ ngày giặc Pháp kéo về càn quét, đốt phá làng. Chuyện kể một tên lính Pháp nhìn thấy cặp chó đá do sợ hãi đã giương súng bắn vào phần đầu con bên trái dẫn đến bị biến dạng. Theo một cao niên trong làng, cặp chó đá được người cung tiến đặt ngay tại cổng đình làng nằm ở ngoài đê. Sau này khi đình được chuyển vào trong làng cho tiện việc trông nom và hương khói, cặp chó đá vì thế cũng được chuyển vào theo. Qua thời gian, dân làng quyết định không đặt cặp chó đá ở cổng đình nữa mà đặt ở ngay đầu làng với mong muốn chúng sẽ trấn giữ, bảo vệ dân làng và ước vọng về sự yên bình và thịnh vượng.

Sự thật không phải ngẫu nhiên dân làng chuyển cặp chó đá ra đầu làng mà liên quan đến một sự kiện. Vào khoảng năm 1946, chính phủ cách mạng lâm thời có sơ tán một kho hàng bí mật về cất giữ tại làng. Không biết bằng cách nào một toán trộm biết có hàng gì đó quý hiếm đang cất giữ trong làng đã lên kế hoạch cướp kho. Ngày chúng kéo ô tô về làng với đầy đủ trang bị vũ khí, trong khi đó lực lượng bảo vệ kho vừa yếu, lại thiếu nên đã đánh kẻng báo cho cả làng cùng bảo vệ kho. Tiếng kẻng vang lên, dân làng nhanh chóng cầm vũ khí, quốc xẻng bao vây toán cướp hòng không cho chúng chạy thoát. Một lực lượng khác được huy động khiêng cặp chó đá đặt trước và sau ô tô bọn chúng và bố trí nhiều chướng ngại vật khác nhằm cản lối. Đánh đuổi bọn cướp thành công, dân làng họp bàn và thống nhất rằng, vị trí cổng làng cần phải có vật gì trấn giữ nên quyết định đặt cặp chó đá yên vị từ đó đến nay.